Bối cảnh lịch sử thời kỳ đầu của Cách mạng tháng 8 và chính sách động viên đóng góp chủ yếu theo hình thức tự nguyện- Bối cảnh lịch sử thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp- chính sách thuế đầu tiên dưới chính quyền cách mạng Việt Nam (1951 – 1954)
- Kết quả thu thuế các loại 3. Giai đoạn 1956 – 1965 – Sau khi có hệ thống chính sách thuế mới dưới Chính quyền cách mạng
- Tổ chức chỉ đạo, quản lý, thu thuế
Bối cảnh lịch sử thời kỳ đầu của Cách mạng tháng 8 và chính sách động viên đóng góp chủ yếu theo hình thức tự nguyện
Sau cách mạng tháng 8 thắng lợi, nhu cầu chi tiêu cho công tác an ninh-quốc phòng và bảo vệ đất nước trên nhiều mặt ngày càng lớn. Trong lúc đó, quỹ ngân khố Trung ương mà Nhà nước ta nắm được chỉ có 1.250.000 đồng Đông Dương (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) kể cả 580.000 đồng tiền hào rách chờ ngày tiêu huỷ. Tuy vậy, chủ trương của Hồ Chủ Tịch và Chính Phủ cách mạng lâm thời là không thể đơn thuần giải quyết vấn đề tài chính Nhà nước Việt nam chỉ biết bắt buộc nhân dân nộp thuế như chế độ cũ.
Với phương châm “lấy dân làm gốc”, dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân, ngày 4-9-1945, Chính Phủ đã ban hành sắc lệnh số 4 thành lập “Quỹ độc lập” để thu nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên góp ủng hộ nền độc lập quốc gia. Trong khuôn khổ của Quỹ độc lập, từ ngày 19-9-1945 Tuần lễ vàng đã được phát động long trọng trong cả nước. Nhân dịp này, trong bức thư gửi đồng bào cả nước, Hồ Chủ Tịch đã nhấn mạnh “Tuần lễ vàng sẽ thu góp số vàng trong nhân dân, nhất là của các nhà giầu có để dùng vào việc cần cấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Tuần lễ vàng sẽ tỏ cho toàn quốc đồng bào và cho toàn thế giới biết rằng trong lúc chiến sĩ Việt minh trên các mặt trận quyết hy sinh giọt máu cuối cùng để giữ vững nền tự do độc lập của nước nhà thì đồng bào ở hậu phương, nhất là những nhà giàu có cũng có thể hy sinh được chút vàng để phụng sự tổ quốc. Như thế, Tuần lễ vàng không những có ý nghĩa đóng góp vào nền tài chính, quốc phòng mà còn có ý nghĩa chính trị quan trọng… Tôi tin rằng toàn quốc đồng bào, nhất là các nhà giàu có , trong sự quyên góp này sẽ xứng đáng với sự hy sinh phấn đấu của các chiến sỹ ái quốc trên các mặt trận” (Hồ Chủ Tịch toàn tập – NXB Sự thật- Hà nội 1984- Tập 4- Trang 15-16).
Nhờ vậy, Quỹ độc lập, Tuần lễ vàng và Tuần lễ đồng đã được đồng bào cả nước nhiệt liệt hưởng ứng. Nhiều người, nhiều gia đình đã không tiếc những đôi hoa tai vàng từ hồi còn con gái, những chiếc nhẫn cưới, những đôi vòng, đôi xuyến vốn là những kỷ niệm quí giá, thiêng liêng của gia đình, những bộ tam sự, ngũ sự đã bao đời dùng để thờ cúng tổ tiên góp vào công quỹ Nhà nước. Một cụ già 80 tuổi mang đến một gói lụa điều bên trong là nén vàng gia bảo nặng 17 lạng, có người quyên góp toàn bộ tư trang của những người trong gia đình đến nộp cho ban tổ chức Tuần lễ vàng… Lòng dân đối với chính quyền cách mạng thật vô biên. Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Tài chính ngày 20-5-1946 thì Quỹ độc lập đã thu được 20 triệu đồng Đông Dương và Tuần lễ vàng đã động viên được khoảng 370kg vàng, tương đương với số thuế thu trong 1 năm dưới chính quyền thực dân, phong kiến ở nước ta. (Võ Nguyên Giáp – Những chặng đường lịch sử – NXB Chính trị quốc gia 1994 – trang 275).
Thực hiện 10 chính sách trong chương trình Việt Minh trước thực trạng chế độ thuế khoá dưới chế độ thực dân phong kiến cũ quá hà khắc, Đảng và Chính phủ chủ trương bãi bỏ các thứ thuế hà khắc do Pháp – Nhật đặt ra, đồng thời xây dựng một hệ thống chính sách thuế mới hợp lý, công bằng, giảm nhẹ hơn, nhằm giải phóng sức sản xuất bị kìm hãm từ bao đời nay do nạn sưu cao, thuế nặng. Nhưng tiếc rằng, do không nắm vững các quan điểm, nội dung chính sách thuế mới nên một số cán bộ lại tuyên truyền, nhấn mạnh đến ý kiến: “Chính quyền cách mạng sẽ bỏ hết các thứ thuế”, gây nên sự hiểu lầm trong một số người là dưới chính quyền cách mạng sẽ không phải nộp thuế nữa. Vì vậy, sắc lệnh số 11 ngày 7-9-1945 của Chính Phủ đã nêu rõ: “Chính sách thuế khoá hiện hành sẽ thay đổi dần; Mỗi khi bãi bỏ một thứ thuế cũ hay đặt ra một thứ thuế mới phải có sắc lệnh ấn định”. Trong sắc lệnh cũng đã qui định: “Bãi bỏ thuế thân là một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần của chính thể dân chủ cộng hoà”. Việc xoá bỏ thuế thân đã thực sự giải phóng nhân dân ta thoát khỏi sự trói buộc vào chiếc thẻ thuế thân, gắn với bắt bớ, giam cầm, hành hạ nhân dân như đối với người nô lệ. Chính Phủ cũng ra lệnh đình chỉ hẳn việc nấu và bán thuốc phiện nhằm chống tệ nạn nghiện hút mà thực dân Pháp đã, đầu độc nhân dân ta để thu lợi nhuận và bần cùng hoá đời sống nhân dân ta, gây nên cảnh tan nát của các gia đình.
Ngày 29-9-1945, Bộ Tài chính đã ban hành Chỉ thị số 3-TC bãi bỏ chế độ độc quyền muối . Đồng thời tổ chức mua muối của dân với giá hợp lý, giảm bớt thiệt thòi cho nhân dân, tạo được yên tâm, phấn khởi sản xuất trong dân.
Trong tình hình bị lũ lụt gây mất mùa, đói kém cho nông dân, ngày 28-10-1945, Bộ Tài chính đã được phép ban hành Nghị định giảm đồng loạt 20% thuế điền thổ chung cho cả nước và miễn thuế điền thổ năm 1946 cho các vùng bị lũ lụt.
Dưới chế độ cũ, thuế môn bài cũng là một gánh nặng đáng kể với người buôn bán nhỏ. Sắc lệnh ngày 27-9-1945 đã quyết định bãi bỏ các hạng thuế môn bài thấp (dưới 50 đồng/năm). Đối với các hộ nộp thuế môn bài với mức cao hơn cũng được bỏ phần phụ thu nộp cho Ngân sách các cấp nhằm giảm nhẹ mức đóng góp của các cơ sở SXKD.
Trong hoàn cảnh nhân dân ta đang bị nạn đói hoành hành, sắc lệnh số 57 ngày 10-11-1945 đã quyết định cấm sản xuất, tàng trữ, tiêu thụ rượu nấu bằng ngũ cốc, gắn với cuộc vận động sâu rộng toàn dân không uống rượu với khẩu hiệu “Mỗi giọt rượu là một giọt máu của đồng bào”. Những vi phạm đối với các quy định trên đều bị xử lý nghiêm khắc. Chế độ công quản, độc quyền nấu rượu của các Công ty tư nhân dưới chính quyền cũ cũng bị bãi bỏ.
Được giải phóng khỏi thuế thân; giảm, miễn thuế điền thổ, thuế môn bài, thoát khỏi nạn độc quyền công quản thuốc phiện, rượu, muối, bước đầu được hưởng chế độ tư do dân chủ, đời sống giảm bớt khó khăn, quần chúng nhân dân vô cùng phấn khởi, yên tâm đẩy mạnh sản xuất. Nhìn về hình thức bên ngoài, thì số thu của NSNN có bị giảm sút nhưng cái được còn lớn lao hơn nhiều, đó là “thu được lòng dân”, tạo được lòng tin của dân đối với Đảng, Bác Hồ, Chính Phủ. Nhân dân quyết tâm đi theo Đảng, sẵn sàng chịu đựng mọi hy sinh, mất mát để giữ được nền độc lập, tự do vừa mới giành được.
Kết quả đóng góp tự nguyện của nhân dân tuy rất to lớn song vì đời sống còn quá nghèo nàn, khả năng đóng góp bằng tinh thần yêu nước còn rất hạn chế. Sau ngày kháng chiến Nam bộ bùng nổ (23-9-1945) nhu cầu chi tiêu của NSNN tăng mạnh. Trong lúc đó, đời sống kinh tế xã hội từng bước ổn định hơn. Chính phủ xác định đã đến lúc cần có thêm một số biện pháp Tài chính phù hợp để động viên sự đóng góp của nhân dân mang tính nghĩa vụ, đúng quy định của Nhà nước.
Đầu năm 1946, Bộ Tài chính đã điều chỉnh tăng thuế đối với thuốc lào, thuốc lá, rượu ngoại, các loại bài lá, với những người đến mua vui tại các cuộc du hý công cộng : rạp hát, rạp chiếu bóng, rạp xiếc, tiệm khiêu vũ, nhà ả đào, cuộc đua ngựa (Nghị định số 126/TC ngày 2/1/1946; Nghị định số 131/TC ngày 7/1/1948), phục hồi chế độ thu thuế môn bài đối với loại buôn bán nhỏ do tình hình kinh tế tốt hơn, có khả năng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế.
Theo Nghị định 193/TC ngày 5-2-1946 của Bộ Tài chính, xe ô tô vận tải phải nộp thuế đặc biệt tính theo chỗ ngồi dành cho hành khách hay mức trọng tải của mỗi xe, dùng cho việc sửa chữa đường sá, cầu cống.
Theo Nghị định 194/TC ngày 15-2-1946 của Bộ Tài chính, trâu, bò, ngựa, lợn, cừu, dê, đưa ra làm thịt ăn hay bán phải nộp thuế đặc biệt với mức thuế phân biệt giữa Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ đối với mỗi con trâu, bò, ngựa là 30đ, 20đ, 15đ, mỗi con lợn, dê, cừu là 15đ, 10đ, 5đ.
Ngoài ra, Nhà nước tăng thêm thuế lưu hành thuốc lào, thuốc lá, rượu tây, rượu tầu; tăng gấp 4 lần với việc lưu hành bài lá; đặt thêm thuế vãng lai đối với tàu thuyền đi lại trên sông Bắc kỳ.
Ngày 10-4-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 48 thành lập một khoản đóng góp bắt buộc mới được gọi là “đảm phụ quốc phòng” với đạo lý: “Trong khi các chiến sỹ mang xương máu ra bảo vệ non sông thì quốc dân ở hậu phương được yên ổn làm ăn cũng phải có nhiệm vụ đóng góp vào công cuộc bảo vệ quốc gia”. Đảm phụ quốc phòng động viên sự đóng góp rộng rãi mang tính chất bắt buộc theo nghĩa vụ công dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc với định mức chung trong năm 1946 đối với mọi công dân từ 18 tuổi đến 65 tuổi là 5đồng/suất (trừ người nghèo khổ, tàn tật không kế sinh nhai, binh lính tại ngũ, cha mẹ, vợ chồng liệt sĩ…) Riêng đối với người có ruộng đất, hoạt động kinh doanh nộp thuế điền thổ, thuế thổ trạch, thuế môn bài và công nhân viên chức mà lương bổng trong năm trên 1.000 đồng thì nộp thuế theo “đảm phụ tỷ lệ” từ 20 đồng đến 3.000 đồng.
Chỉ trong thời gian ngắn, riêng ở Bắc bộ và Trung bộ khoảng 8 triệu công dân đã đóng góp xấp xỉ 40 triệu đồng, nhiều người trong diện được miễn cũng xin được đóng góp “đảm phụ quốc phòng”, có người nằm trong diện đóng góp xin được đóng cao hơn so với mức quy định.
Theo các sắc lệnh số 69 ngày 15-5-1946 và sắc lệnh số 78 ngày 29-5-1946. Chính Phủ đã điều chỉnh biểu thuế điền thổ cho phù hợp với thời giá lúc bấy giờ, nhẹ hơn nhiều so với trường hợp “cấy rẽ, nộp tô”.
Hình thức đóng góp tự nguyên cũng được phát triển với nhiều dạng phong phú như “Hũ gạo nuôi quân” “Giúp binh sĩ bị nạn”, “Giúp đồng bào tản cư” “Quỹ bình dân học vụ” ” Đón thương binh về làng” “Đỡ đần bộ đội” “Hũ gạo cứu nước”, “Hũ gạo nuôi quân”, “Thóc Bác Hồ khao quân” … Nhân dân ngày càng tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến, hăng hái đóng góp sức người, sức của.
Bên cạnh các hình thức đóng góp như trên, bấy giờ còn có hình thức đóng góp khác rất phổ biến, đó là “ăn cơm nhà, làm việc nước”, bụng đói nhưng vẫn hăng hái luyện tập quân sự, canh gác xóm làng suốt ngày đêm hay đi dân công phục vụ tiền tuyến. Một gia đình có con em đi bộ đội, đi dân công thì cả xóm phân công nhau giúp đỡ, trông nom người già yếu ở nhà để người đi được yên tâm, ruộng vườn không bị hoang hoá.
Cùng với chính sách động viên, Đảng và Chính Phủ đã rất quan tâm tìm mọi cách từng bước bồi dưỡng sức dân qua các phong trào vận động “đẩy mạnh tăng gia sản xuất”, “thực hành tiết kiệm”, “giảm tô giảm tức”… phân chia ruộng đất lĩnh canh trong các đồn điền tịch thu của bọn thực dân, phản động hoặc tạm giao ruộng đất tịch thu của bọn Việt gian cho nông dân nghèo canh tác, cho vay tín dụng bằng tiền, bằng trâu bò, nông cụ…, không đòi hỏi thế chấp bằng ruộng đất, tài sản…
Chính sách tiết kiệm đã trở thành “quốc sách” được mọi cấp, mọi ngành và đại bộ phận các tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và thực hiện trong tiêu dùng. Bộ máy chính quyền của mỗi Tỉnh thường không quá 30 người; rất ít trường hợp dùng xe công cho việc riêng; đất không bị bỏ hoang, kể cả những mảnh vườn nhỏ xung quanh các cơ quan Trung ương tại An toàn khu Việt Bắc; mỗi tuần lễ, mỗi gia đình bớt ăn mấy nắm gạo bỏ vào hũ gạo nuôi quân, hũ gạo cứu đói…thậm chí ở cơ quan, một phong bì thư được dùng đi dùng lại 2-3 lần; bản nháp công văn, lần đầu viết bằng bút chì, lần sau mới viết bằng bút mực… Nhìn về hình thức, những việc trên đây mang tính bình thường nhưng trong lúc đất nước còn nghèo, với phương châm “kiến tha lâu đầy tổ” “năng nhặt chặt bị” “góp gió thành bão” thì những việc trên đây có ý nghĩa rất thiết thực, to lớn.
Các hình thức quyên góp, đảm phụ quốc phòng và một số cải cách về thuế chỉ đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu chi tiêu của NSNN. Để vươn lên thế chủ động về tài chính, Đảng và Chính Phủ đã quyết định khẩn trương chuẩn bị mọi điều kiện để in và phát hành giấy bạc Việt nam. Ngày 15-11-1945 cơ quan ấn loát (in bạc) của Bộ Tài chính, tiền thân của nhà in Ngân hàng ra đời và bắt đầu hoạt động… Từ 3/2/1946 (ngày tết đầu tiên sau Cách mạng Tháng 8 thắng lợi) ở các tỉnh Nam Trung bộ, những tờ giấy bạc đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hoà ra mắt trước sự hoan nghênh nhiệt liệt của nhân dân. Mọi người nô nức đổi tiền ĐD lấy tiền Việt Nam, nên Chính phủ đã thu hồi được số tiền ĐD đáng kể để chi tiêu trong những vùng chưa phát hành tiền Việt Nam. Giấy bạc Việt Nam trong giai đoạn này do Bộ Tài chính phát hành nên có tên gọi là “tiền tài chính”. Trên tờ giấy bạc có hình Hồ Chủ tịch nên còn được gọi là “giấy bạc Cụ Hồ”. Ngày 3/11/1945, Quốc hội đã quyết định cho lưu hành giấy bạc Việt Nam trong cả nước, kịp thời trở thành lợi khí phục vụ nhu cầu của cuộc trường kỳ kháng chiến nổ ra từ 19/12/1946.
Đầu năm 1948, qua nhiều thắng lợi giòn giã, cuộc kháng chiến chống Pháp đã được chuyển sang giai đoạn cầm cự, giằng co với địch. Về kinh tế hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch, toàn dân “Thi đua ái quốc”, phong trào thi đua sản xuất được đẩy mạnh ở tất cả vùng tự do. Về nông nghiệp đã có một số chính sách khuyến khích sản xuất được ban hành như: chia lại công điền, tạm cấp ruộng đất vắng chủ, tăng cường giảm tô, giảm tức, cho vay sản xuất nông nghiệp…Về công thương nghiệp: cho vay vốn, tích cực bao vây kinh tế địch, bảo vệ hàng sản xuất ở vùng tự do. Nhờ đó, trong khu vực nông nghiệp, công thương nghiệp đã có những bước phát triển khá.
Về thuế, đã có những điều chỉnh phù hợp với thời giá lên cao, biểu thuế điền thổ tăng 50%, thuế nhập khẩu tăng từ 5% lên 10% và từ 15% lên 20% (Sắc lệnh số 218 ngày 20/8/1948)
Bước vào năm 1949, căn cứ vào tình hình chung có nhiều biến động có lợi cho ta, Chính Phủ ra lệnh “Tích cực cầm cự, chuẩn bị tổng phản công”. Ngày 8-5-1949, sắc lệnh số 36 ra đời, đặt ra quỹ “Tham gia kháng chiến” quy định suất đóng góp bắt buộc cho mỗi công dân là 60 đồng, tương đương 10 ngày sinh hoạt phí của bộ đội.
Năm 1950, lực lượng quân sự của ta mạnh mẽ hơn nhiều. Cách mạng Trung quốc thành công có ảnh hưởng tích cực tới cuộc kháng chiến của ta, Liên Xô, các nước XHCN và nhiều nước khác lần lượt công nhận Chính Phủ ta làm cho địa vị quốc tế của nước ta ngày càng tăng thêm, thế của ta càng mạnh.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu kháng chiến ngày càng nhiều theo hướng tích cực trên các lĩnh vực, ngày 12-12-1950 Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh Tổng động viên nhân tài vật lực của toàn dân theo phương châm “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” Tất cả các địa phương, toàn dân thi đua thực hiện bằng được khẩu hiệu “Thuế không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Cuộc vận động trên không những chỉ có đồng bào ở vùng tự do hăng hái thi đua làm nghĩa vụ đóng góp đảm phụ, nộp thuế mà cả đồng bào vùng tạm bị chiếm cũng hăng hái, phấn khởi góp quân lương, bán thóc cho Chính Phủ. Nhân dân ta còn vượt qua bao nguy hiểm của vòng vây của giặc để tự nguyện gánh, thồ thóc ra vùng tự do “đóng nhanh lúa tốt”…
Nhìn chung trong các năm 1950-1951, kinh tế – tài chính của ta gặp rất nhiều khó khăn do cuộc kháng chiến phát triển, chi tiêu ngày càng nhiều. Việc thi hành chính sách tài chính còn nhiều thiếu sót, mức động viên còn mang tính bình quân, chính sách thuế còn dè dặt . . Thuế thu vừa thấp, vừa chưa đánh mạnh vào các tầng lớp có nhiều thóc, nhiều tiền . Thuế thu bằng tiền chỉ bảo đảm phần nhỏ yêu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế điền thổ và quỹ công lương từ năm 1950 đã chuyển sang thu bằng hiện vật, theo luỹ tiến nhưng mức huy động còn chưa sát với các tầng lớp nhân dân. Số thu cho NSNN còn thấp nên Chính phủ phải dựa nhiều vào việc phát hành giấy bạc để đáp ứng đủ yêu cầu chi tiêu về quân sự, hành chính.
Trong bài trả lời phỏng vấn của Báo Cứu quốc về kết quả tổng động viên, Bác Hồ đã nói :”Từ nay trở đi, cuộc tổng động viên phải tiếp tục rộng lớn, đều hơn, mạnh hơn. Phải làm cho bộ đội đủ ăn, đủ mặc, đủ người giúp việc trong khi chuẩn bị chiến trường, sửa sang đường sá” (Hồ Chí Minh toàn tập – NXB Sự thật – Tập 5- Trang 316)
Về tài chính, phương hướng đề ra là động viên đến mức cao nhất khả năng đóng góp của nhân dân một cách công bằng, hợp lý. Chuyển hướng quan trọng đối với các khoản đóng góp chính là không thu bằng tiền mà thu bằng hiện vật, chủ yếu là bằng thóc, nhằm tránh ảnh hưởng của lạm phát, đồng bạc của ta bị sút giảm, đảm bảo cho bộ đội ăn no đánh thắng và cung cấp đủ lương thực cho công nhân viên chức Nhà nước. Trên tinh thần đó, “Quỹ tham gia kháng chiến” ban hành năm 1949 với mức quy định là 60 đồng/suất được chuyển thành “Quỹ công lương” thu bằng 10kg thóc/suất. Đồng thời tăng cường thu các loại thuế được duy trì sau khi loại bỏ các loại thuế nô dịch, mang tính chất bóc lột; sửa lại thuế điền thổ hợp lý hơn và đánh luỹ tiến vào hoa lợi của chủ ruộng đất, phù hợp hơn với khả năng của người nộp thuế, đặc biệt là động viên hợp lý vào địa chủ, phú nông có nhiều ruộng đất phì nhiêu, thu hoạch cao. Thuế môn bài được điều chỉnh tăng gấp đôi; thuế trước bạ tăng gấp 2 lần, thuế thuốc lào, thuốc lá tăng gấp 4 lần cho phù hợp với thời giá (Bộ Tài chính – Lịch sử Tài chính Việt nam – Tập 1- 1993- trang 76).
Nhằm thu hồi bớt một số lượng tiền phát hành quá mức, đẩy giá lên cao, Chính phủ ta đã dùng đến hình thức phát hành công trái. Theo Sắc lệnh 122 ngày 16/7/1946, Nam bộ là nơi đầu tiên được phát hành công trái (gọi là “công thải”) để huy động sự đóng góp tài lực của nhân dân, với mức vay là 5 triệu đồng, chia làm 5 kỳ, lãi không quá 5%/năm.
Phát huy thắng lợi của chiến thắng Việt Bắc thu đông 1947, theo Sắc lệnh số 166 ngày 11/4/1948, Chính phủ cho phát hành công phiếu kháng chiến nhằm hai mục đích: Huy động số tiền nhàn rỗi trong dân, phục vụ sản xuất chiến đấu và dùng công phiếu kháng chiến như một thứ tiền dự trữ, đề phòng trường hợp đứt liên lạc với trung ương, UBKCHC địa phương có thể ra lệnh lưu hành Công phiếu kháng chiến như giấy bạc, theo giá trị ghi trên Công phiếu kháng chiến. Dự kiến phát hành 500 triệu đồng, lãi suất 3%/năm, thời hạn trả lãi 5 năm. Do công tác tuyên truyền vận động chưa tốt, việc bán Công phiếu kháng chiến kéo dài đến hết năm 1949, tiền sụt giá nhanh, cũng chỉ bán được 2/3 số phiếu phát hành.
Rút kinh nghiệp Công phiếu kháng chiến, ngày 19/9/1950, Chính phủ đã cho phát hành Công trái quốc gia, ghi bằng thóc để bảo đảm giá trị số tiền dân cho vay với tổng mức phát hành là 100.000 tấn thóc, lãi suất 3%/năm, thời hạn hoàn trả 5 năm. Công tác tuyên truyền làm tốt hơn nhưng kết quả cũng chỉ đạt khoảng 30% dự tính. Nguyên nhân chủ yếu là hình thức công trái còn xa lạ với số đông dân chúng, chỉ quen nộp thuế, ủng hộ, chưa mạnh dạn bỏ nhiều tiền ra mua công trái, một phương tiện cất giữ tiền và sinh lợi.
Nhu cầu chi tiêu cho kháng chiến tăng nhanh hơn nhiều so với những cố gắng và kết quả động viên dươí các hình thức tự nguyện và bắt buộc nêu trên đây. Do đó trong 4 năm kháng chiến (1947-1950), số thu Ngân sách chỉ đáp ứng khoảng 25% nhu cầu chi tiêu, còn lại phải dựa vào phát hành (Bốn mươi năm trưởng thành của ngành Tài chính Việt nam 1945-1985 – trang 13).
Nhìn chung, các chủ trương, chính sách và biện pháp về tài chính, tiền tệ từ sau cách mạng tháng 8 đến năm 1950 đã khơi dậy được lòng yêu nước, thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ và tinh thần đóng góp của các tầng lớp nhân dân. Qua đó, đã từng bước góp phần khắc phục được những khó khăn cực kỳ gay gắt, bảo đảm các nhu cầu chi tiêu ngày càng nhiều trong bước đầu của cuộc kháng chiến. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu vẫn dựa vào sự đóng góp tự nguyện của nhân dân mà người nghèo lại hăng hái hơn người giầu có thì kết quả còn rất hạn chế. Chế độ động viên theo nghĩa vụ chưa được hình thành chặt chẽ, chính sách thuế còn sơ sài, chắp vá trên một số loại thuế dưới chế độ cũ; hệ thống thuế mới chưa được xây dựng; tư tưởng muốn xoá thuế, xem nhẹ thuế, còn phổ biến trong một số cán bộ. Số thu vào NS chỉ đáp ứng được phần nhỏ nhu cầu chi tiêu, phải dựa chủ yếu vào nguồn phát hành tiền, một lợi thế mà cách mạng đã giành được qua lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Hồ Chủ Tịch là rất cần thiết và có tác dụng to lớn nhưng cũng có những tồn tại, hậu quả không tốt do tình trạng lạm phát, giá trị đồng tiền ngày càng giảm sút.
Để lại một phản hồi